Văn hóa giáo dục Đệ_Nhị_Cộng_hòa_Ba_Lan

Thủ tướng Kazimierz Bartel, cũng là học giả và nhà toán học

Năm 1919, chính phủ Ba Lan quy định giáo dục cưỡng bức với mọi trẻ em từ 7 đến 14 tuổi để hạn chế mù chữ phổ tại, đặc biệt ở phần của Nga và Áo ở phía đông. Năm 1921, một phần ba số công dân mù chữ (38% ở nông thôn), quá trình xóa mù chữ chậm, nhưng đến năm 1931 thì mức mù chữ giảm xuống 23% (27% ở nông thôn) và xuống nữa đến 18% năm 1937; đến năm 1939 hơn 90% trẻ em đi học.[22][30] Năm 1932, Bộ trưởng tôn giáo và giáo dục Janusz Jędrzejewicz thi hành cải cách lớn, quy định hai cấp giáo dục: giáo dục phổ biến (szkola powszechna) có ba hạng, bốn lớp + hai lớp + một lớp và giáo dục trung cấp (szkola średnia) có hai hạng, bốn lớp trung học cơ sở và hai lớp trung học phổ thông (kinh điển, nhân văn, khoa học tự nhiên và toán học). Học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở nhận tiểu bằng, trong khi học sinh tốt nghiệp trung học phổ tổng nhận đại bằng cho phép đi học đại học.

Viện bảo tàng quốc gia ở Warszawa mở cửa năm 1938

Trước năm 1918, Ba Lan có ba đại học: Đại học Jagiellonian, Đại học WarszawaĐại học Lwów. Đại học cơ đốc giáo Lublin thành lập năm 1918, Đại học Adam Mickiewicz ở Poznań năm 1919 và cuối cùng Đại học Wilno năm 1922 sau khi sát nhập Nước cộng hòa Trung Litva, là đại học thứ sáu. Cũng có ba viện nghiên cứu công nghệ: Đại học công nghệ Warszawa, Học viện bách khoa LwówĐại học khoa học công nghệ AGH ở Kraków thành lập năm 1919, Đại học khoa học sinh vật Warszawa là viện nghiên cứu nông nghiệp. Đến năm 1939 có khoảng 50,000 sinh viên, phụ nữ chiếm 28% số sinh viên đại học, là mức cao thứ hai ở châu Âu.[31]

Khoa học Ba Lan trong thời kỳ chiến gian nổi tiếng bởi các nhà toán học ở Học viện toán học Lwów, Học viện toán học Kraków và Học viện toán học Warszawa, có nhiều triết lý gia cấp thế giới ở Học viện luân lý và triết lý Lwów-Warszawa.[32] Florian Znaniecki sáng lập ngành xã hội học Ba Lan, Rudolf Weigl phát minh vắt xin sốt phát ban, Bronislaw Malinowski xếp vào những nhà nhân loại học quan trọng nhất thế kỷ 20.

Marian Rejewski, Jerzy RóżyckiHenryk Zygalski, các nhà toán họcnhà mật mã học Ba Lan làm việc phá mật mã Enigma Đức trước và trong Đệ nhị thế chiến

Về văn học Ba Lan, thi ca trội nhất thập niên 20, các nhà thơ chia thành hai nhóm: Skamanderites (Jan Lechoń, Julian Tuwim, Antoni SłonimskiJarosław Iwaszkiewicz) và nhóm Vị Lai (Anatol Stern, Bruno Jasieński, Aleksander Wat, Julian Przyboś). Ngoài các tiểu thuyết gia có tiếng (Stefan Żeromski, Władysław Reymont) nhiều tên mới xuất hiện trong thời kỳ chiến gian: Zofia Nałkowska, Maria Dąbrowska, Jarosław Iwaszkiewicz, Jan Parandowski, Bruno Schultz, Stanisław Ignacy Witkiewicz, Witold Gombrowicz. Các nghệ sĩ khác bao gồm nhà điêu khắc Xawery Dunikowski, họa sĩ Julian Fałat, Wojciech KossakJacek Malczewski, nhà soạn nhạc Karol Szymanowski, Feliks Nowowiejski, Artur Rubinstein và ca sĩ Jan Kiepura

Nhạc kịch rất được ưa thích trong thời kỳ chiến gian, có ma trung tâm chính ở Warszawa, Wilno và Lwów; tổng cộng có 103 nhà hát ở Ba Lan và các cơ sở nhạc kịch khác (bao gồm 100 nhà hát dân gian). Năm 1936, 5 triệu người xem các cuộc biểu diễn khác nhau, các nhân vật chính của ngành nhạc kịch Ba Lan bao gồm Juliusz Osterwa, Stefan JaraczLeon Schiller. Ngoài ra, trước khi chiến tranh bùng phát thì có xấp xỉ một triệu máy radio (xem Trạm phát thanh ở Ba Lan chiến gian)

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đệ_Nhị_Cộng_hòa_Ba_Lan http://bbs.keyhole.com/ubb/ubbthreads.php?ubb=down... http://www.paulbogdanor.com/left/soviet/famine/ell... http://kuscholarworks.ku.edu/dspace/bitstream/1808... http://kuscholarworks.ku.edu/dspace/bitstream/1808... http://kuscholarworks.ku.edu/dspace/bitstream/1808... http://tvp.info/informacje/nauka/70-lat-telewizji-... //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... http://culture.pl/en/article/polish-tangos-the-uni... http://statlibr.stat.gov.pl/F/1NQPQD53XD384SAKG68P... http://statlibr.stat.gov.pl/F/1NQPQD53XD384SAKG68P...